Trong văn học Việt Cột_đồng_Mã_Viện

Khoảng năm 1789, Vũ Huy Tấn được vua Quang Trung cử đi sứ sang nhà Thanh (Trung Quốc). Trên đường đi gặp nơi dựng cột đồng, ông xúc cảm làm ra bài thơ:

Vọng đồng trụ cảm hoài(Trông chỗ cột đồng, cảm xúc)Dịch nghĩa:Sáng sớm ra khỏi thành Minh Châu,Tìm hỏi dấu tích cột đồng.Người địa phương chỉ tay về phía xa,Nơi hai đống đá xanh xanh!Than ôi! Cột đồng kia!Là đất cũ của nước ta!Từ thời Trưng Vương buổi trước,Phục Ba đã vạch làm biên giới.Bậc phấn son [15] thật cũng anh hùng.Muôn đời tiếng tăm còn vang dội.Đáng thương tên gian phu nhúng tay vào vạc [16],Cắt đất dâng đi chẳng đoái tiếc gì.Bờ cõi xưa vì thế luân lạc đi mất,Đến nay đã hàng mấy trăm năm.
Khói mù cộng với thời gian,Cảm khái việc xưa nay biết dường nào!Bên này có núi Phân Mao,Trời đã làm cho phần Bắc phần Nam bị chia tách.Chia đã lâu rồi cần hợp lại,Vết tích lạ này há lại bỏ không [17].

Trong Nam Phong tạp chí số 8, tháng 2 năm 1918, ở mục Vịnh sử có bài thơ ký tên là Vô danh thị, như sau:

Trèo non vượt bể biết bao công,Một trận hồ Tây chút vẫy vùng.Quắc thước khoe chi mình tóc trắng,Cân thoa đọ với gái quần hồng.Gièm chê đã chán đầy mâm ngọc,Công cán ra chi mấy cột đồng.Ai muốn chép công ta chép oán,Công riêng ai đó oán ta chung.